Articles by "mê đọc sách"
Hiển thị các bài đăng có nhãn mê đọc sách. Hiển thị tất cả bài đăng
Blog về sách, về công nghệ, và những điều thú vị khác trong cuộc sống,
48 nguyên tắc chủ chốt của quyền lực

Đã bao giờ bạn nghe ai đó nói rằng, cuộc đời là một trò chơi quyền lực chưa? Trong trò chơi đó, mọi người đều tìm cách để nâng cao sức mạnh, nâng cao quyền lực của mình. Vậy làm thế nào để có thể trở thành bậc thầy trong trò chơi quyền lực? Thời xưa có binh pháp Tôn Tử với 36 kế, thời nay cũng có 48 nguyên tắc quyền lực của Robert Greene.
Blog về sách, về công nghệ, và những điều thú vị khác trong cuộc sống,
Jame O. McKinsey
Nói đến McKinsey là nói về quản trị. Không một công ty tư vấn nào nổi tiếng, được săn đón và thành công bền vững như McKinsey & Company. Đội ngũ chuyên gia chiến lược ưu tú của công ty đã huấn luyện được nhiều CEO hàng đầu thế giới.

Những huyền thoại trong kinh doanh như Tom Peters, Kenichi Ohmae và Jon Katzenbach đã phát triển khả năng tư duy sắc bén và sự nhanh nhạy của mình tại McKinsey. Các nhân tài kiệt xuất của những tập đoàn lớn như Lou Gerstner của IBM và Harvey Golub của American Express cũng ứng dụng những tư duy chiến lược mà họ học được từ McKinsey vào việc điều hành các công ty tầm cỡ thế giới của họ.

Phương pháp McKinsey sẽ hé lộ những bí quyết quản trị được bảo vệ cẩn mật – đó là những công cụ giúp bất kỳ ai ở bất kỳ cấp độ nào cũng có thể tư duy như một nhà tư vấn McKinsey thực thụ. Trong những trang sách này, Ethan M. Rasiel, nhà phân tích từng làm việc cho McKinsey, sẽ trình bày những phương pháp hiệu quả để tiếp cận và giải quyết những vấn đề nan giải nhất trong kinh doanh, đó là những phương cách mà bạn có thể áp dụng cho bất kỳ một công ty nào.

Từ những kinh nghiệm tích luỹ đuợc trong khi làm việc ở tuyến đầu của McKinsey, Rasiel sẽ giúp bạn hiểu rõ một dự án, một “sự hứa hôn” theo cách nói của McKinsey, để minh hoạ cho việc làm thế nào bạn có thể hưởng lợi từ việc áp dụng những kỹ thuật quản trị phân tích nghiêm ngặt của McKinsey vào thực tế cuộc sống hằng ngày.

11 điểm của phương pháp McKinsey

- Thứ nhất: Cải tiến sáng tạo
Muốn thành công thì phải năng động. Tiến hành cách mạng ở bên trong đưa lại cải tiến sáng tạo. Những gì được thực hiện ở McKinsey đều phải đi trước và mở đường cho các đối tác.

- Thứ hai: Xây dựng đội ngũ
Muốn thành công thì phải hợp tác tạo thành đội ngũ, kết tụ nhiều ý tưởng và tạo nên trí thức nổi trội.

- Thứ ba: Cộng sự tự lãnh đạo chính mình
Phần thắng thuộc về những ai nhanh hơn, chủ động hơn và sáng tạo hơn. Khách hàng là một phần của nhóm làm việc. Phải có được thông tin và tri thức từ nguồn để nhanh chân hơn đối thủ cạnh tranh. Để thành công trong việc này cần kết nối những bộ phận nhỏ với nhau thay thế cho bộ máy quản lý cồng kềnh và trì trệ.

- Thứ tư: Tạo văn hóa “phản biện và tranh luận”
Muốn cải tiến sáng tạo cần chấp nhận rủi ro. Cộng sự có trách nhiệm phản biện và tranh luận. Khích lệ và trả công cho cộng sự theo kết quả lao động cụ thể. Thành công tạo ra thói quen làm trì trệ con người.

- Thứ năm, doanh nghiệp phải hoạt động trên bình diện toàn cầu, có trách nhiệm cho khu vực và chi nhánh ở đó. Nhờ Internet, các doanh nghiệp nhỏ có thể tạo dựng sự hiện diện toàn cầu.

- Thứ sáu, phải liên kết tính năng động của các doanh nghiệp mới vào cơ cấu của các doanh nghiệp đã định hình vững vàng. Cần có những con người vừa muốn thay đổi thế giới vừa có đủ những khả năng kỹ thuật cần thiết để làm việc đó.

- Thứ bảy: Thực tế và ưu tiên hàng đầu cho khách hàng
Sẽ thất bại nếu chủ quan, ngạo mạn, phớt lờ những phát triển mới và phân tích sai những nhu cầu đòi hỏi của khách hàng. Định hướng đưa tới thành công phải là “nhà quản lý bám sát thực tế” và “ưu tiên hàng đầu cho khách hàng”.

- Thứ tám: Chạm tới giới hạn của chính mình
Những ai không động chạm tới giới hạn của chính mình đều sẽ không thành công. Về lâu dài, chỉ những doanh nghiệp dám “tấn công” và vượt lên trên đối thủ cạnh tranh bằng những sản phẩm sáng tạo thì mới thành công.

- Thứ chín: Trực diện với những thách thức luôn thay đổi
doanh nghiệp chỉ duy trì được vị trí hàng đầu khi dám trực diện với những thách thức luôn thay đổi. Và cuối cùng, hài hước và cởi mở chứ không cố chấp và bi quan. Chỉ như vậy mới tránh được những tình huống khó xử trong hốt hoảng và tuyệt vọng.

- Thứ mười: Tuyển chọn nhân tài phù hợp
McKinsey lựa chọn khoảng 1% từ gần 225.000 ứng viên hàng năm nhưng không chấp nhận ai thích thể hiện thành “sao”. “Quan hệ” là bí quyết thành công đặc biệt quyết định của McKinsey.

- Thứ 11: Tập trung vào hiệu quả khách hàng
McKinsey thành công hơn tất cả nhờ biết cách thực hiện hiệu quả nhất nên khách hàng dù phải trả giá đắt nhất cho McKinsey nhưng vẫn không thể không công nhận rằng đúng là tiền nào của nấy.

Link tải sách định dang ePub: https://1drv.ms/u/s!Ahsq8JVyWQ0vgbM4Mvp7i8dPqLJAcw
Blog về sách, về công nghệ, và những điều thú vị khác trong cuộc sống,

Tên sách : Đánh cắp ý tưởng – Steal These Ideas!
Tác giả : Steve Cone
Thể loại : Sách Marketing
Giới thiệu :

Đánh Cắp Ý Tưởng – Những Bí Quyết Marketing Giúp Bạn Thành Công

Những ý tưởng độc đáo thật sự hữu ích và thực tế mà bạn có thể đánh cắp để áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả trong chiến lược Marketing, xây dựng thương hiệu và kinh doanh hiệu quả.
Blog về sách, về công nghệ, và những điều thú vị khác trong cuộc sống,


Tóm tắt ngắn
Phi Lý Trí giải thích những hành xử phi lý căn bản mà chúng ta mắc phải mỗi ngày. Tại sao chúng ta quyết định ăn kiêng rồi từ bỏ nó ngay khi nhìn thấy một bữa tráng miệng ngon lành? Tại sao mẹ của bạn lại cảm thấy xúc phạm nếu bạn cố gửi bà tiền cho bữa tối Chủ nhật mà bà đã dày công chuẩn bị? Tại sao thuốc giảm đau lại hiệu quả hơn khi các bệnh nhân biết rằng nó có giá cao? Nguyên nhân và cách phòng chống những sự phi lý này sẽ được khám phá và giải thích qua các nghiên cứu và câu chuyện từ giáo sư tâm lý học Dan Ariely.

Blog về sách, về công nghệ, và những điều thú vị khác trong cuộc sống,

Đây là một tập sách mỏng với độ dài 225 trang, văn nhẹ như thơ, thấm đẫm những triết lý phương Đông, đồng thời mang tới một thông điệp, một nhắn nhủ, một tâm sự thật gần gũi: “Đừng bao giờ từ bỏ ước mơ của mình!” và đừng bao giờ sợ hãi trước cánh cổng chênh vênh vô định khi thực hiện ước mơ, bởi vì “mỗi giây phút tìm kiếm là một khoảnh khắc gặp gỡ Thượng Đế và Vĩnh hằng“. Bạn cần nhớ rằng, khi đã quyết tâm muốn điều gì thì cả vũ trụ sẽ tác động để giúp ta đạt được mục đích.

Cảm nhận cuốn sách: Nhà giả kim
Paulo Coelho

Lịch sử nhân loại bao đời nay luôn tồn tại những tấm gương sáng ngời về lòng quyết tâm của cá nhân hoặc của cả một dân tộc nhằm thực hiện ước mơ thay đổi cả vận mệnh.
Lòng quyết tâm theo đuổi ước mơ của anh chàng chăn cừu trong chuyện hay thực tế là sự tâm huyết với nghề của chính tác giả cũng là một bài học cho chúng ta.
Nhà giả kim
Theo bạn, thành công là gì? Sau một chuỗi hành trình tới Rome thì thành công có phải là Rome không hay đó là quãng đường bạn và mồ hôi công sức bạn dành ra để đặt chân được tới Rome? Thành công không phải là đích đến, thành công là cuộc hành trình bạn trải qua.
Nội dung tiểu thuyết xoay quanh chàng chăn cừu Santiago ở Tây Ban Nha, người đã từ bỏ mong muốn trở thành một nhà tu hành trong trường dòng của ba mẹ để sống theo sở thích “đi đây đi đó” của mình. Lúc nào bên cậu cũng có một cuốn sách với tác dụng để đọc và để gối đầu khi ngủ. Vào một đêm hè, bầu trời có rất nhiều ngôi sao tỏa sáng, cậu kê sách ngủ cùng bầy cừu trong một nhà thờ làng đổ nát, nơi có cây dâu mọc trong phòng thay áo lễ. Trong giấc ngủ đó, hai lần liên tiếp cậu mơ thấy mình được một đứa trẻ dẫn đến Kim Tự Tháp Ai Cập tìm kho báu. Trải qua muôn vàn khó khăn và thử thách, cậu đặt chân được tới Ai Cập. Dù phải đụng độ những tên cướp, bị trắng tay và suýt chết nhưng cậu đã tìm ra vị trí đặt kho báu, ở một nơi rất bất ngờ. Cuối cùng Santiago lấy được kho báu, quay lại ốc đảo cậu từng đặt chân qua trong chuyến hành trình với niềm vui hân hoan và hạnh phúc tuyệt vời.
Chuyến hành trình từ Tây Ban Nha tới Ai Cập được khởi động, diễn tiến và kết thúc trọn ven trong 52 chương của cuốn sách với ý chí của chàng chăn cừu “đem tất cả những gì mình có để đổi lấy một giấc mơ”.
Bạn sẽ bắt gặp rất nhiều triết lý trong cuốn tiểu thuyết này mà không hề nhàm chán hay giáo điều. Bạn sẽ nhận ra “ai cũng biết người khác nên sống như thế nào, nhưng lại không hiểu mình nên sống ra sao”. Nghe thì có vẻ nực cười nhưng đã bao giờ bạn cho rằng người khác phải học chăm chỉ lên, phải sống như thế nào, xã giao ra sao trong khi chính bạn cũng mắc những sai lầm tương tự như vậy? Và rồi, không chỉ là những bài học cuộc sống mà một sự thực thú vị trong chuyện tình yêu cũng được tác giả khơi gợi “người ta được yêu bởi vì người ta được yêu. Không cần lý do nào cả“. Chuyện tình yêu vốn dĩ đã rắc rối và sự thật là không cần một lí do cụ thể nào đó để bắt đầu hay kết thúc một tình yêu, một thứ đã thiên về tình cảm thì nên để trái tim lên tiếng quyết định.
Tiểu thuyết được viết một câu chuyện cổ tích giản dị, đan xen yếu tố thần tiên và tâm linh kỳ ảo. Câu chuyện ngập tràn những thông điệp từ giản đơn tới phức tạp, được khắc họa thông qua những vĩ nhân thông tuệ như nhà vua xứ Salem hay nhà giả kim huyền thoại, đến những người bình thường như anh bán kem, ông chủ cửa hàng pha lê, cô gái sa mạc và cả những tên cướp ngày tại kim tự tháp…
Dù được Paulo Coelho miêu tả qua những từ ngữ, câu văn linh hoạt, cách bộc lộ đặc điểm tính cách của các nhân vật khác nhau, nhưng tất cả trong Nhà giả kim đều hội tụ chung một điểm xuyên suốt: họ đều có một ước mơ, một vận mệnh của cuộc đời mình. Chỉ khác là không phải ai cũng dám đi theo nó, không phải ai cũng có thể rời bỏ nơi quen thuộc gần gũi để chạm tay vào ước mơ của bản thân như anh chàng chăn cừu Santiago.
Santiago gặp rất nhiều khó khăn thử thách trong cuộc hành trình, nhưng với con mắt lãng du quyết tâm của một chàng trai trẻ nắm bắt ước mơ và vận mệnh của mình, niềm tin mãnh liệt vào những dấu hiệu tốt lành, với lòng dũng cảm, sự chân thành và quyết tâm theo đuổi vận mệnh, cuối cùng, cậu đã hiểu được ngôn ngữ của vũ trụ, trước hết là của bầy cừu và sau đó là khắp vạn vật thế gian. Cậu học được cách trò chuyện với trái tim mình và đã có được nhiều hơn một kho báu.
Khi bạn đã dám dấn thân thực hiện ước mơ của mình thì những thứ bạn nhận được còn nhiều hơn cả việc chạm tay và giấc mơ.
Đây là cuốn sách bán chạy thứ hai trên thế giới chỉ sau Kinh thánh, cuốn sách bán được hơn 65 triệu bản và được dịch ra 56 thứ tiếng. Cuốn sách phù hợp với mọi lứa tuổi và xứng đáng là cuốn sách cần phải đọc trong đời của tất cả mọi người.
Blog về sách, về công nghệ, và những điều thú vị khác trong cuộc sống,

Khi viết cuốn sách Tiếp thị số từ A đến Z, tôi muốn mang đến cho độc giả càng nhiều thông tin thực tế càng tốt. Mỗi chương sách đều bắt đầu với phần tóm tắt nội dung của chương, vì vậy bạn đọc có thể dễ dàng lướt qua các đầu chương và chọn cho mình một chương phù hợp, có đề cập đến các chủ đề mà bạn quan tâm. Tôi đã cố gắng hạn chế sử dụng các thuật ngữ – nhưng trong trường hợp bắt buộc, tôi đều có chú thích tại chỗ nhằm giải thích kỹ hơn mọi thuật ngữ bằng tiếng Anh mà các nhà tiếp thị số thường hay sử dụng. Tôi hy vọng, thông tin từ cuốn sách sẽ rõ ràng, đầy đủ và mang đến nhiều điều thú vị cho cả những người mới chân ướt chân ráo bước vào thế giới số.
Bạn đang cầm trên tay cuốn sách Tiếp thị số từ A đến Z thứ mà các nhà tiếp thị tự do trên toàn thế giới từng khao khát có được: Một cuốn sách cho bạn biết cách sử dụng Internet để bán thành công các sản phẩm hay dịch vụ của bạn. Tiếp thị số từ A đến Z bắt đầu với việc thuật lại cho bạn biết nguồn gốc của truyền thông số và đưa bạn đi qua các lĩnh vực khác nhau trong những chiến dịch tiếp thị số. Tiếp thị số từ A đến Z đã chu du khắp thế giới để thu thập dữ kiện, số liệu, các nhận xét và ý kiến từ nhiều chuyên gia, thương hiệu và các tổ chức nổi tiếng trong các lĩnh vực khác nhau, khai thác từ họ những bí quyết khiến Internet mang lại thành công cho họ.

Tiếp thị số từ A đến Z – Cuốn từ điển chuyên ngành về tiếp thị số

Nhờ nhận lời viết giới thiệu một cuốn sách về tiếp thị số, tôi lại có dịp hồi tưởng những kỷ niệm đầu tiên khi tiếp cận với Internet. Đó là những đêm khuya thức bên máy tính; trong tiếng te te của modem kết nối mạng VNN1269. Mạng Internet đưa tôi đến với kiến thức bao la, dẫn tôi những bước đầu tiên vào con đường trở thành một người làm tiếp thị số chuyên nghiệp.
Năm 2001, Việt Nam có hơn 1 triệu người sử dụng Internet. Ngày đó, ở thành phố tôi sống, một giờ sử dụng Internet tại dịch vụ Internet công cộng có giá 24 nghìn đồng. Ba năm sau, con số người dùng Internet của Việt Nam tăng lên hơn 6 triệu và đến năm 2014 đã đạt gần mốc 40 triệu người (theo số liệu của internetlivestats.com). Là một quốc gia với dân số trẻ, Internet tại Việt Nam đã phát triển mạnh với tốc độ cao hàng đầu so với khu vực. Internet đã làm thay đổi không chỉ thói quen tìm kiếm, tiếp nhận thông tin mà cả cách chúng ta giao tiếp với nhau. Internet đã hình thành nên những trào lưu thay đổi văn hóa giải trí, ngôn ngữ, giá trị sống. Giờ đây, khi thức dậy, thứ chúng ta chạm vào đầu tiên là chiếc điện thoại di động; chúng ta “đặt câu hỏi” cho Google còn nhiều hơn cho thầy giáo của mình; chúng ta đau khổ vì không thể đăng nhập vào Facebook do đứt cáp quang trên biển Đông; chúng ta viết lời chúc mừng sinh nhật trên dòng thời gian của bạn mình thay vì một tấm thiệp được chọn từ nhà sách; và do vậy, có thể nói chúng ta là công dân của kỷ nguyên số.
Trong Tiếp thị số từ A đến Z, Damian Ryan sẽ dẫn bạn quay trở về quá khứ để tìm hiểu lịch sử của các công nghệ vốn đã làm thay đổi nhân sinh quan của các thế hệ con người. Chính những ảnh hưởng lớn của chúng đến hành vi của con người là thứ dẫn đến nhiều thay đổi lớn trong môi trường kinh doanh. Những mô hình kinh doanh mới liên tục được tạo ra, đời sống kết nối số của người tiêu dùng liên tục tiến hóa và tất nhiên là kéo theo những cách thức tiếp thị mới, hiện đại ra đời. Tuy nhiên, tiếp thị số không có nghĩa là đơn thuần truyền thông điệp bằng cách chặn giữa luồng tiếp nhận thông tin qua các phương tiện số như mô hình tiếp thị truyền thống đã áp dụng cho báo giấy, tivi và radio. Tiếp thị số cũng không chỉ là việc lựa chọn các kênh mới nhằm tiếp cận người tiêu dùng. Mà đó còn là hoạt động dõi theo hành trình khách hàng trong kỷ nguyên số, thấu hiểu những điểm giao tiếp với họ trên cả không gian số và không gian vật lý, tạo nên những trải nghiệm đáng nhớ để tận dụng sức mạnh lan tỏa, giá trị ảnh hưởng của từng khách hàng trên không gian số của chính họ.
Khái niệm tiếp thị số giờ đây đã không còn xa lạ với những người làm tiếp thị. Từ những công ty đa quốc gia cho đến các cửa hàng nhỏ, tiếp thị số đã trở thành một phương pháp chứng minh được sự hiệu quả. Từ chỗ nghi ngờ và dè dặt, trong 3 năm trở lại đây, tiếp thị số đã trở thành một phần không thể thiếu trong kế hoạch tiếp thị tích hợp. Tỷ lệ ngân sách dành cho tiếp thị số cũng tăng rất nhanh, cho thấy tầm nhìn của người làm tiếp thị tại Việt Nam. Trong những năm còn làm việc tại Ogilvy với vai trò Chief Digital Officer (Giám đốc Tiếp thị số), tôi đã có điều kiện theo dõi sự phát triển của nhiều thương hiệu quốc tế trên không gian số tại Việt Nam và trên thế giới. Sau này khi thành lập công ty tiếp thị số MVV Digital, tôi luôn mong muốn không chỉ cung cấp các dịch vụ và giải pháp, mà còn là chia sẻ và học hỏi những góc nhìn mới về tiếp thị hiện đại tới đông đảo những người làm tiếp thị Việt Nam.
Thật hiếm có những cuốn sách như cuốn Tiếp thị số từ A đến Z của Damian Ryan, tổng hợp một cách đầy đủ, như chính cái tên của nó, các mô hình tiếp thị số. Ở đầu mỗi chương, tác giả đưa ra cam kết về những thông tin bạn sẽ nhận được trong suốt chương sách và rồi ở cuối chương, bạn sẽ thấy hài lòng. Ryan cũng đưa đến cho bạn những thông tin cập nhật rất mới về định nghĩa, cách thức triển khai, mô hình quản lý của từng công cụ, giúp bạn không chỉ có khả năng lựa chọn những công cụ tiếp thị số phù hợp mà còn hiểu và định hình được chiến lược số cho doanh nghiệp của mình. Đây là cuốn sách xứng đáng nằm trên kệ của mỗi người làm tiếp thị tại Việt Nam, như một cuốn từ điển chuyên ngành nhỏ mà bạn có thể tra cứu.
Nguyễn Tiến Huy
Chief Digital Officer – MVV Digital Vietnam
Trân trọng giới thiệu!
Blog về sách, về công nghệ, và những điều thú vị khác trong cuộc sống,
Công thức của vận may - William Poundstone
Công thức của vận may – Các bí mật về hệ thống cá cược giúp bạn nắm bắt được vận may tại sòng bạc và sàn chứng khoán
“Công thức của vận may” là cuốn sách vô cùng hấp dẫn kết hợp giữa cờ bạc, cá ngựa, đầu tư chứng khoán và sự chính xác của toán học, một cuốn cẩm nang cho những người muốn áp dụng công thức Kelly để làm giàu. (David Pogue, The New York Times Book Review).
“Công thức của vận may” là một câu chuyện thú vị đối với mỗi người trong chúng ta. Nó khiến ta nhớ đến những cuốn khác như “chống lại Đức Chúa trời” của Peter L Bernstein hay cuốn “khi những thiên tài thất bại” của Roger Lowenstein. Tất cả đều nhằm giải thích một điều rằng, vì sao những con người thông minh lại chấp nhận những sự mạo hiểm ngu ngốc. Poundstone đã chỉ cho bạn đọc thấy Công ty LTCM (công ty quản lý vốn dài hạn) đã tránh được tai hoạ như thế nào bằng cách áp dụng phương pháp Kelly. (Peter Coy, Businessweek).
“… Paul Samuelson yêu trường Đại học Harvard. Tình yêu ấy hoàn toàn không có gì có thể thay thế được. Ở tuổi hai mươi lăm, số lượng công trình nghiên cứu đăng trên các báo của anh thậm chí còn nhiều hơn số tuổi đó. Tuy nhiên, vị trí của anh dường như vẫn còn thấp kém tại Harvard, nơi người ta xếp anh vào vị trí trợ giảng môn kinh tế học, một vị trí có mức lương thấp. Chiếc ghế giảng viên là một viễn cảnh xa vời. Một trong các đồng nghiệp của Samuelson đã đựơc đề bạt lên làm giảng viên vì bản thân người này có một khiếm khuyết – anh ta xuất thân từ vùng Kansas. Còn Samuelson lại xuất thân từ Gary, bang Indiana. Người Kanas không phải là người Do Thái, trong khi Samuelson là người Do Thái.
Năm 1940, Samuelson đã nhận lời mời để chuyển đến mạn cuối bên kia của vùng Cambridge cách đó ba dặm. MIT là một viện chuyên về các môn khoa học và đào tạo kỹ sư, dường như không hề có một khoa nào về kinh tế học cũng như các khoá đào tạo lãnh đạo kinh tế hay chính trị cho nước Mỹ. Trong thời kỳ mà các trường đại học danh tiếng ở phía đông nước Mỹ âm thầm chống lại cộng đồng Do Thái, chủ trương ngoại lệ của MIT chính là họ sẵn sàng tuyển dụng một người trong cộng đồng này, miễn là anh ta thông minh.
Sự tập trung vào kỹ thuật của MIT rất phù hợp với tài năng của Samuelson. Samuelson chọn hướng nghiên cứu kinh tế như một môn khoa học toán. Đó là phương pháp tiếp cận đi ngược lại những thông lệ thời ấy. Từ thời Adam Smith đến John Maynard Keynes, kinh tế học đa phần chỉ là những bài thảo luận. Ở Harvard, kinh tế học cũng vẫn được nghiên cứu theo phương pháp luận. Nhưng tại MIT, Samuelson phát triển nó thành toán học.
Samuelson thoải mái với phương trình vi phân như một nhà vật lý vậy. Giấy tờ nghiên cứu của anh chi chít các định lý mà anh gọi đó là kết quả. Nhờ vào điểm này, Samuelson đã kết hợp được những lập luận ngắn gọn nhưng sắc bén vào trong bài thuyết giảng và các ấn bản của mình, khiến chúng khác biệt so với vô số những phát biểu buồn tẻ và dài lê thê khác. Samuelson trở thành một giảng viên xuất chúng. Có lẽ không một nhà kinh tế học nào lúc bấy giờ có thể tiếp bước thế hệ trước một cách thành công như Samuelson đã từng làm tại MIT…”.
Blog về sách, về công nghệ, và những điều thú vị khác trong cuộc sống,
Thư tình gửi một người - Trịnh Công Sơn
Thư tình gửi một người – Trịnh Công Sơn
Thư tình gửi một người gồm hàng trăm bức thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gởi cho một người con gái tên là Ngô Vũ Dao Ánh từ năm 1964 – 2001. Được người nhận thư ( Dao Ánh) giao lại cho gia đình để công bố cho bạn đọc. Qua đó, người đọc có thể hiểu được những suy nghĩ, cuộc đời, sự hình thành các ca từ trong ca khúc của Trịnh Công Sơn. Tình yêu, tình nhớ, tình sầu qua hàng trăm bức thư tình của nhạc sĩ, chúng ta biết thêm được nhiều điều về sinh hoạt của một số vùng thời chiến tranh.
Qua thư tình, khi trò chuyện với người yêu, Trịnh Công Sơn cũng bày tỏ ít nhiều tâm trạng và những trăn trở của giới trí thức quanh ông.
Qua những bức thư tình, ta cũng có thể biết chính xác người tình nào đã tác động mạnh mẽ đến việc thai nghén và ra đời một số ca khúc tuyệt vời như Lời buồn thánh, Tuổi đá buồn, Mưa hồng, Gọi tên bốn mùa …
Nhân kỷ niệm 10 năm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi thiên thu 1/4 (2001-2011), Nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn sách “Thư tình gửi một người” tập hợp hơn 300 trang thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi Ngô Vũ Dao Ánh, người tình có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu bền trong cảm hứng sáng tạo âm nhạc của nhạc sĩ.
Điều đặc biệt là thông qua hàng trăm trang thư tình mà Dao Ánh đã cất giữ tận đáy lòng gần nửa thế kỷ nay, người đọc không những được thưởng thức những trang thư tài hoa lấp lánh mà còn được thâm nhập sâu vào thế giới nội cảm phong phú của Trịnh Công Sơn, từ đó hiểu sâu hơn về ca từ và con người Trịnh Công Sơn.
*Giải mã ca từ Trịnh Công Sơn
Ca từ Trịnh Công Sơn được mệnh danh là “lời của phù thủy”. Do đó, việc hiểu đúng, hát đúng ca từ nhạc Trịnh là hết sức quan trọng, nếu không là “sai một ly đi một dặm”. Trong nhạc Trịnh, ta bắt gặp nhiều hình ảnh, biểu tượng như: chim di, dạ lan, loài sâu, mặt trời… cũng như nhiều cảm xúc đã được mã hóa. “Thư tình gửi một người” đã giải mã những hình ảnh, biểu tượng, những cảm xúc này, giúp người thưởng thức có những khám phá mới và thú vị về thế giới nghệ thuật của Trịnh Công Sơn.
Hình ảnh “chim di” xuất hiện trong ca khúc lừng danh “Diễm xưa”, ca khúc đánh dấu kỷ niệm mối tình của Trịnh Công Sơn với Ngô Vũ Bích Diễm (chị ruột của Ngô Vũ Dao Ánh): “Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động, làm sao em nhớ những vết chim di”. Sau khi chia tay Bích Diễm, Trịnh Công Sơn đã nhận được tình cảm sẻ chia của Dao Ánh qua thư từ và từ đó, thư đi, tin lại, mối tình với Dao Ánh nảy nở. Hình ảnh “chim di” không xuất hiện trở lại với tên gọi nguyên nghĩa của nó trong các tình khúc hậu “Diễm xưa” nữa nhưng còn để lại dư ảnh buồn thương trong ca khúc “Còn tuổi nào cho em” viết cho Dao Ánh: “Tuổi nào ghi dấu chân chim qua trời”. Đặc biệt, hình ảnh “chim di” còn được Trịnh Công Sơn nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các trang thư tình gửi Dao Ánh, cho thấy bao nỗi niềm, bao dư chấn buồn đau của “Diễm xưa” còn trút gửi cả cho Dao Ánh: “Ánh rồi cũng làm loài chim di xám bỏ miền – giá – buốt này mà đi. Lúc đó anh chỉ còn ngồi nghe một lời bể động” (thư Sài Gòn, 28.9.1964), “Tuy nhiên cũng không thể không buồn khi nhớ đến những vết chân chim di một lần cất tiếng hót cho mình và đã bay đi biền biệt. Dấu tích còn lại mơ hồ trong vùng sương mù huy hoàng còn sót lại đó” (thư Blao, 27.10.1964), “Con gái vẫn thường là một loài chim di dễ quên vùng ở cũ” (thư Đà Nẵng, 10.11.1966). Vậy chim di là loài chim gì, sống ở đâu? Nhà thơ Phạm Tiến Duật kể: “Có một lần, khi nghe bài Diễm xưa, tôi bảo Trịnh Công Sơn rằng có một câu phải sửa, là câu này: “… Làm sao em nhớ những vết chim di”. Cả bài không nói tới một tên hoa, tên lá, tên chim nào, hà cớ gì lại có chim di! Có lẽ nên đổi là chim đi, chỉ nói đến vết chân chim, là đủ. Trịnh Công Sơn bảo rằng không sửa được, vì đấy là kỷ niệm riêng. Sơn nói về Huế nhưng viết ở Nha Trang. Ở Nha Trang mới có loài chim di dỡn sóng. Lũ chúng ta cũng chỉ như loài chim di dỡn sóng ở giữa đời này” (1). Như vậy, chim di dùng để chỉ những hình ảnh bay biến bất thường, không nắm bắt được, không cầm giữ được, giống như tình yêu mong manh vụt biến. Khái quát hơn nữa, chim di còn chỉ sự vô tăm tích của kiếp người trong cõi phù thế.
Hình ảnh “dạ lan” được nhắc tới trong ca khúc “Dấu chân địa đàng”: “Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng”. Ca khúc này còn có tên là “Tiếng hát dạ lan”. Nhà Dao Anh (cách nhà Trịnh Công Sơn một cây cầu là cầu Phú Cam) trồng nhiều hoa dạ lan và loài hoa này không chỉ thơm ngát trong vườn nhà Dao Ánh mà còn lừng hương trong nhạc Trịnh và trong nhiều bức thư tình tha thiết, da diết của Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh: “Dạ lan giờ này chắc đã ngạt ngào cả một vùng tối đó rồi, đã cài lên từng sợi tóc của Ánh” (thư Blao, 31.12.1964), “Anh ao ước bây giờ mở cửa ra bỗng dưng có chiếc cầu bắc qua dòng sông và anh bước qua cầu rồi rẽ về phía tay phải đi đến căn nhà có mùi thơm dạ lan và đứng đó gọi tên Ánh thật thầm để chỉ vừa đủ Ánh nghe” (thư Blao, 26.9.1965). Dĩ nhiên, “dạ lan” trong vùng kỷ niệm của Trịnh Công Sơn cũng như trong nhạc Trịnh không đơn thuần để chỉ một loài hoa đáng yêu mà còn là biểu tượng, là hiện thân của vẻ đẹp và tình yêu thầm kín, thanh tao, thắm thiết của Dao Ánh, là biểu tượng, là hiện thân của cõi “địa đàng”, cõi “Thiên Thai”, cõi mơ ước hạnh phúc bất tuyệt muôn đời của nhân loại: “Mưa đã trở về cùng với đêm. Như một ngày nào Ánh rời xa anh để trở về với nếp sống bình thường, ở đó Ánh đi trên lối đi quen thuộc của những người đã đi trước mà không cần phải nhìn những bảng số hai bên đường. Sẽ bình thường và thản nhiên quên đã một lần dẫm chân qua một vực – thẳm địa đàng mà anh đã linh cảm trước từ lâu, như “địa đàng còn in dấu chân bước quên” của một thời anh đã âm thầm nghĩ rằng biết đâu Ánh không lớn lên từ một loài dạ lan nào đó” (thư Blao, 27.10.1964), “Bây giờ là tiếng nói đêm của anh với Ánh. Với Ánh dạ lan… ” (thư Blao, 22.11.1964).
Cũng trong ca khúc “Dấu chân địa đàng”, bên cạnh hình ảnh “dạ lan” là hình ảnh “loài sâu” được nhắc đi nhắc lại với nhiều trạng thái như ngủ: “Mùa xanh lá loài sâu ngủ quên trong tóc chiều”, ca hát: “Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng”, giải thoát ưu phiền: “Rồi từ đó loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền”. Loài sâu này chính là một phiên bản khác của phận người, ôm chứa những buồn vui của nhân sinh, điều này càng được thấy rõ hơn trong những bức thư của Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh: “Ngôn ngữ đã mất đi với những ngày nằm co như một loài – sâu – chiếu ở Blao” (thư Đà Lạt, 19.9.1964), “Ở đây cũng có loài sâu đất reo đêm” (thư Đà Lạt, 19.9.1964), “Đêm sáng mờ bên ngoài. Sâu đất reo rất trong ở bãi cỏ” (thư Blao, 23.10.1964), “Đêm đã lạnh và đã buồn. Cây cỏ lao xao. Anh chỉ còn nghe rõ tiếng sâu đất và tiếng dế reo… ” (thư Blao, 29.12.1964), “Đêm rất dày đen. Sâu đất của núi rừng cũng đã reo lên âm thanh rất nhọn” (thư Blao, 23.9.1965). Hình ảnh “loài sâu” này không xuất hiện trở lại ở những ca khúc khác của Trịnh Công Sơn nhưng trong ca khúc “Phúc âm buồn”, một biến thể khác của “loài sâu” đã hiện ra qua hình ảnh “loài thú nằm co”: “Người nằm co như loài thú khi mùa đông về”, “Người nằm co như loài thú trong rừng sương mù”. Như thế, “loài sâu” chứ không phải là một hình ảnh nào khác mới thể hiện trọn vẹn tính phức điệu của hồn người: vừa khát khao dâng tặng đời những khúc nhạc lòng quý giá tinh luyện được như nguồn nhạc của loài sâu đất, loài ve mùa hè được ấp ủ, dưỡng nuôi từ trong bào thai của đất; vừa mang nỗi cô đơn nguyên ủy của phận người, cô đơn như là một cách thế để giữ gìn bản ngã của mình, không vong thân, không vọng ngoại. Vì lẽ đó, dễ hiểu vì sao không ít lần, Trịnh Công Sơn đã nhắn nhủ Dao Ánh: “Vọng ngoại quá nhiều chỉ làm hư hao, thiệt thòi mình thêm mà thôi. Ở trên lý do đó anh đã luôn luôn cố gắng tách rời đám đông, co mình về với mình, với Ánh. Ánh đã phải nhận ra điều đó từ lâu rồi phải không” (thư 12.1.1967).
Cùng với lối sử dụng hình ảnh ví von hay nhân hóa về con người như vậy, đặc biệt, trong nhạc Trịnh có nhiều hình ảnh đã được nâng lên thành biểu tượng, chẳng hạn, biểu tượng “mặt trời” trong ca khúc “Xin mặt trời ngủ yên”. Dao Ánh, nguồn sáng huyền thoại tình yêu của Trịnh Công Sơn hiểu theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, vì chính cái tên Dao Ánh mang hàm nghĩa chỉ “mặt trời”. Mà “mặt trời” là nơi hoa hướng dương luôn hướng về, nên Trịnh Công Sơn đã gắn hình ảnh Dao Ánh với vẻ đẹp lộng lẫy của hoa hướng dương: “Và xin mặt trời ngủ yên. Để Ánh là tournesol (hoa hướng dương – chú thích của người hiệu đính sách) mãi mãi. Anh tưởng tượng một khuôn mặt profil (nhìn nghiêng – chú thích của người hiệu đính sách) mà một đường sáng hồng của mặt trời chạy dài từ chân tóc đến trán – mũi – cằm. Thật huyền thoại như tượng” (thư Blao, 3.9.1964), “Suốt con đường đó hoa tournesol mọc vàng hai bên bụi. Rừng núi mùa này hoa vàng đó sáng rực. Sao không là sinh nhật Ánh. Anh có ý nghĩ muốn đổi ngày sinh của Ánh đó. Ánh có bằng lòng không” (thư Đơn Dương, 11.11.1964). Trịnh Công Sơn đã cắt nghĩa đầy sâu sắc, thú vị về tên người tình của mình, đồng thời, giải mã những cảm xúc sâu xa, chất chứa trong ca khúc “Xin mặt trời ngủ yên”: “Anh vừa học được cách viết bằng chữ Nho tên của Ánh. Và cũng nhờ thế anh biết được vì sao Ánh thích hoa mặt trời. Trong chữ Ánh có chữ Nhật là mặt trời. Và bài Xin mặt trời ngủ yên lại tình cờ có câu: ôi nhân loại, mặt trời trong tôi. Lúc viết bản này anh đã có câu đó vì anh nghĩ là Ánh thích hoa mặt trời và mặt trời là nơi hoa hướng dương nhìn về đó. Nên anh đã đem mặt trời nhốt vào trong anh” (thư Huế, 1.12.1966). Thật là chí lý, ý nhị và “đáo để” khúc nhôi. Chiến tranh đã mang đi bạn bè, không còn ai, ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương. Nhưng niềm tin ở con người, ở tình người trong nhạc Trịnh không bao giờ mất: “Ôi nhân loại mặt trời và em thôi”, “Ôi nhân loại mặt trời trong tôi”, “Ôi nhân loại còn người trong tôi”. Trong tôi có nhân loại và em. Nhân loại và em là mặt trời trong tôi. Như vậy, “nhân loại”, “em”, “mặt trời”, “tôi” giao hòa trong nhau hay đó chính là một. Tất cả ở trong một. Trong một có tất cả, như Phật nói, trong một hạt cát có chứa ba nghìn đại thiên thế giới, trong hạt cải có chứa núi Tu Di (tư duy “trong một có tất cả” này còn được thể hiện trong nhiều ca khúc khác của Trịnh Công Sơn như “Xa dấu mặt trời”: “Hôm nay thức dậy không còn thấy mặt trời, không còn thấy một người, hơi thở ru đời như gió ru mây”, hay “Nhớ mùa thu Hà Nội”: “Hà Nội mùa thu mùa thu Hà Nội, nhớ đến một người để nhớ mọi người”). Từ biểu tượng “mặt trời” chỉ sự soi chiếu, vỗ về ấm áp của tình người trong “Xin mặt trời ngủ yên”, sang đến các ca khúc khác về sau của Trịnh Công Sơn, biểu tượng này chứa đựng nhiều ý nghĩa mới: khát vọng hòa bình mãnh liệt của dân tộc, chân lý hòa bình tự do bất diệt của người Việt Nam: “Ta nung sôi ý chí mặt trời” (Cho quê hương mỉm cười), “Ta phải thấy mặt trời, sáng trên quê hương này đầy loài người” (Ta phải thấy mặt trời). Như vậy, biểu tượng “mặt trời” trong nhạc Trịnh Công Sơn được “mách bảo” bởi một người tình có tên là Dao-Ánh-Hướng-Dương nhưng đã mang được những giá trị phổ quát toàn nhân loại: tình yêu, tình người, niềm tin vào con người, lòng hướng thượng, sự thức ngộ chân lý, sự đấu tranh vì hòa bình, tự do…
Có khá nhiều hình ảnh, nhiều câu từ trong nhạc Trịnh đã được cảm và hiểu sâu sắc hơn, thấm thía hơn như vậy nhờ được giải mã qua “Thư tình gửi một người”. Vẻ đẹp của người tình trong nhạc Trịnh thường là vẻ buồn đẹp, tuổi buồn, mắt buồn, tóc buồn, tay buồn. Trong một lá thư gửi Trịnh Công Sơn, Dao Ánh dù còn trẻ nhưng đã sớm nhận ra lẽ vô thường trong màu mắt buồn của mình: “Ôi màu mắt rồi cũng có ngày đổi màu như thế” (thư Blao, 27/10/1964). Và thư Trịnh Công Sơn khi cảm tác về thành phố Đà Lạt đã thốt lên: “Đêm Đà Lạt cũng buồn như mắt Ánh ngàn năm” (thư Đà Lạt, 21/3/1965). Trong ca khúc “Còn tuổi nào cho em”, Trịnh Công Sơn đã vận hết bao vẻ đẹp của trời, của mây để đặc tả vẻ đẹp mắt buồn Dao Ánh: “Trời xanh trong mắt em sâu, mây xuống vây quanh giọt sầu”, “Tuổi nào mơ kết mây trong sương mù”. Câu hát với hình ảnh lãng đãng “tuổi nào mơ kết mây trong sương mù” đã được Trịnh Công Sơn cắt nghĩa qua thư gửi Dao Ánh: “Ánh có buồn lắm không. Hãy ngước mắt lên cho anh nhìn. Mây sẽ kết trên vùng mắt đó. Anh đã nói như thế trong lời ca Còn tuổi nào cho em cho Ánh, có bằng lòng thế không?” (thư Blao, 31.12.1964).
Ý nghĩa ca từ của Trịnh Công Sơn càng được soi tỏ hơn khi qua những bức thư tình gửi Dao Ánh, Trịnh Công Sơn đã nói rõ về lý do ra đời của một ca khúc hoặc tự bạch về nỗi niềm sâu kín của mình ký thác vào ca khúc đó. Trịnh Công Sơn cho biết, ca khúc “Mưa hồng” ra đời bắt nguồn từ niềm giận dỗi của Dao Ánh: “Anh hát lại bản Mưa hồng mà anh đã viết cho những ngày Ánh giận anh ở Huế. Bản nhạc hát lại bỗng thấy buồn hơn” (thư Sài Gòn, 6.12.1964). Hiểu rõ lý do ra đời như vậy của “Mưa hồng”, người hát và người nghe nhạc Trịnh có sự bừng ngộ thú vị trước thông điệp nhân văn sâu sắc gửi gắm qua lời ca bất tuyệt: “Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ”. Ca khúc “Ru em từng ngón xuân nồng” viết cho Dao Ánh diễn tả một trạng thái tâm lý thật lạ: người hát ru cuộc tình, người ru dỗ, vỗ về người tình, “Đức Giáo hoàng” tình ái lại là người ăn năn, trái ngược với điều ta vẫn thường gặp trong nhà thờ: người được đức cha vỗ về mới là người ăn năn: “Thôi ngủ đi em, mưa ru em ngủ, tay em kết nụ, nuôi trọn một đời, nuôi một đời người, mùa xuân vừa đến, xin mãi ăn năn mà thôi”. Vì sao người giàu niềm đa cảm, giàu lượng từ bi (Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ – Ru em) lại phải “ăn năn”? Từ “ăn năn” ở đây có tính chất như một “mật ngữ” của tình ái đã được Trịnh Công Sơn giải thích một cách đầy thi vị và lý thú: “Anh đã hiểu được Ánh và bây giờ càng cảm thấy không thể để mất Ánh. Cho anh tạ tội một lần và từ đây Ánh sẽ được xem như một loài chim hồng thần thoại bay trên vùng – ăn – năn – của – anh. Tất cả đã đi qua như trong cơn mê sảng” (thư 5.2.1965). Như thế, “ăn năn” ở đây là để tạ ơn đời, tạ ơn người tình đã nuôi trọn hồn ta mà ta lại mắc lỗi, lại chưa vẹn niềm đền đáp. Như thế, “xin mãi ăn năn mà thôi” tức là càng “ăn năn” để càng được yêu người, yêu đời gấp bội lần, yêu thêm cái phần thiếu hụt phải “tạ tội” với người tình.

*Con người tự biểu hiện của Trịnh Công Sơn: “Đôi khi ta lắng nghe ta”

Không chỉ giúp người đọc giải mã ca từ Trịnh Công Sơn, “Thư tình gửi một người” còn giúp hiểu rõ, hiểu sâu hơn về con người Trịnh Công Sơn, thông qua phương thức tự biểu hiện, tự soi chiếu chính mình của nhạc sĩ qua từng lá thư gan ruột. Soi chiếu mình là nguyên tắc cốt lõi của người tu Phật, như Tuệ Trung Thượng Sĩ bảo: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” (soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được). Sự thấu hiểu sâu sắc hơn về con người “bổn phận sự” của Trịnh Công Sơn sẽ càng giúp phát hiện, khám phá thế giới nghệ thuật Trịnh Công Sơn chính xác hơn và thấu đáo hơn.
Người nhạc sĩ say sưa xưng tụng “quê hương thần thoại” là người yêu quê hương tha thiết, luôn đau đáu với vận nước, với phận người dân Việt: “Anh nói về đất đai trên quê hương mình. Một ngày nào đó anh sẽ da du qua những miền chưa hề ghé đến. Có những buổi sao mình thấy yêu thương quê hương đến thế này. Da thịt mình như được dựng nên bằng đất đỏ và tâm hồn như được xây bằng cỏ cây hoa lá, bằng tiếng đàn buồn bã của dân mình. Bao giờ nhắc lại chuyện quê hương anh cũng buồn” (thư Blao 23.10.1964). Cho dẫu buồn đau vì quê hương đang bị chiến tranh tàn phá khốc liệt, nhạc sĩ vẫn vững tin ở ngày mai tươi sáng của dân tộc: “Qua lần chiến tranh này quê hương mình cũng sẽ trở lại với thuở hồng hoang. Anh nhìn về anh và thấy mình cũng sắp tàn rữa đi để chờ một ngày mới đến” (thư 28.1.1966). Thuở “hồng hoang” mà Trịnh Công Sơn nói đến trong thư chính là thuở ban đầu nguyên vẹn, thuở nguyên đán tuyệt vời, chính là cõi thần tiên, cõi thần thoại bất diệt của quê hương Việt Nam được vẽ nên đầy ấn tượng trong ca khúc “Xin mặt trời ngủ yên”: “Sau chinh chiến ôi quê hương thần thoại, thuở hồng hoang đã thấy đã xanh ngời liêu trai”.
Xuất phát từ lòng yêu quê hương tha thiết, từ niềm tin ở “quê hương thần thoại” bất diệt, Trịnh Công Sơn đã lựa chọn cho mình thái độ sống, hành động sống xứng đáng là đứa con Da Vàng của Mẹ Việt Nam. Đất nước sẽ không có tự do, sẽ không thoát khỏi thảm cảnh “một ngục tù nuôi da vàng” (Ngày dài trên quê hương), nếu mỗi người dân Da Vàng không nêu cao ý thức tự do. Trịnh Công Sơn đã chọn tự do: “Anh còn mừng một điều, trong những cơn buồn dai – dẳng – thường – trực, là còn có được tự do, còn biết được chọn lựa với ý nghĩa tròn đầy của nó. Ôi khi con người không còn sự chọn lựa thì tự do đã bị tước đoạt hoàn toàn… Con người sẽ được một lần làm con – người – là – người cho đỡ tủi hổ số phần mình đã bị vứt ra đó” (thư Đà Lạt 19.9.1964). Lựa chọn tự do, con người được sống với bản ngã, với lập trường của mình: “Nếu mình sống thực với bản chất mình thì đó đã là một khí giới công hiệu nhất để đánh bẹp mọi lời gièm pha. Mình phải dám mang cả sự sống của mình đánh cá với đám đông không có lập trường đó. Mình dựa trên thực chất của bản ngã mình để đánh đổ đám người không có một bản ngã duy nhất để dựa vào. Thế nào rồi mình cũng thắng. Con người phải có một cái gì rất thực để hãnh diện vì mình đã thực hiện đúng sứ mệnh của đời sống, của condition humaine (thân phận làm người – chú thích của người hiệu đính sách)” (thư Đà Lạt 20.9.1965). Từ sự lựa chọn tự do đó, lô gích tất yếu dẫn Trịnh Công Sơn đi đến quyết định phản chiến: “Bao giờ có tin chắc chắn về chuyện đi lính của anh, anh sẽ cho Ánh hay. Sẽ có dịp để đặt mình vào những giới hạn khác. Sẽ bắt đầu một cuộc đời học trò gian nan hơn. Sẽ bỏ vào lòng súng từng viên đạn phi lý để nhắm vào đầu vào mắt vào tim nhau. Anh đã hèn nhát hay vì chiến tranh này quá thô bạo. Nhưng thôi anh sẽ câm bớt lại. Trong xã hội này lý lẽ của kẻ yếu bao giờ cũng dễ biến thành những lời ngụy biện” (thư Blao 26.2.1965), “Tên anh đã có trong khóa 20… Một cuộc chiến tranh khốc liệt, tàn nhẫn mang sẵn từ khởi đầu những mầm mống vô lý cùng cực của nó, anh đang lao đao trên một chọn – lựa – quyết – định cuối cùng” (thư Đà Lạt 21.3.1965). Sự lựa chọn tự do và quyết định phản chiến đã tạo nên một thứ khí giới tinh thần để chống lại sự đồng hóa: “Anh thấy mình ở ngoài khổ người mà đời sống này đang cần. Sẽ còn rất nhiều bạn bè anh bị rơi vào guồng máy. Sẽ còn rất nhiều người thân yêu anh trôi dạt về đời sống này như những bọt bèo mù lòa. Mình không làm một nhà đạo đức nhưng mình phải biết chống đối. Mỗi người phải tạo riêng cho mình một thứ khí giới để chống đối, mình hãy tự dựng lên những cái đập vững chắc để ngăn mình khỏi trôi dạt về làm một loại bè – lũ – rác – rến trong những hàng ngũ thối tha sẵn có. Đó cũng là niềm kiêu hãnh thật sự. Đừng bao giờ để mình đồng hóa với bất cứ ai” (thư Sài Gòn 17.9.1966). Chống lại sự đồng hóa, Trịnh Công Sơn đã tả thực đầy bi phẫn về thảm trạng vong bản, mất gốc xảy ra nhức nhối ngay trên chính quê hương của mình: “Đã qua thêm một chiều thứ bảy, một ngày chủ nhật. Những khuôn mặt con gái rất đẹp, rất sang, rất nhã, rất cao đi bên cạnh những người ngoại kiều trên đất nước này. Ôi làm sao giải thích cho hết những ô nhục, những khúc mắc, những rối rắm trên mặt đất này nữa” (thư Sài Gòn 28.2.1965), “Thành phố này đang đầy rẫy những chợ đen, ăn cắp, làm giàu phi pháp và con gái hư. Sẽ tan hoang cả khi người ngoại quốc đã rút đi. Người ta sẽ mất đi hàng tỷ năm cũng chưa xây dựng lại nổi cái ý thức trong con người” (thư Đà Nẵng 12.11.1966). Cái ý thức đó, cái ý thức mà nhạc Trịnh tận lực vun bồi, xây đắp đó chính là ý thức về nguồn, bám víu, neo giữ hồn mình với cội nguồn “nòi giống của Tiên” để có sức mạnh chống lại sự đồng hóa, vong bản, vong thân.
Ngoài sự tự biểu hiện thái độ sống, hành động sống, những bức thư tình của Trịnh Công Sơn còn phác họa hành trình âm nhạc của nhạc sĩ qua các giai đoạn, với những thiên hướng sáng tác độc đáo khác nhau. Từ những khúc kinh cầu cho tình yêu: “Ánh ơi, anh sẽ viết một loại ca khúc làm kinh cầu nguyện cho những kẻ yêu nhau. Hãy yêu và tìm sự trường cửu ở trong đó” (thư Huế 28.11.1966), đến dòng nhạc phản chiến: “Anh đang khởi sự thời kỳ dọn mình để bắt đầu viết những ca khúc mới. Bây giờ là lúc những tiếng động đã lắng xuống, những ồn ào bông đùa đã qua. Anh đang lắng nghe mỗi ngày, đang chờ đợi những tiếng nói lạ lùng hơn khởi hứng cho mình” (thư Huế 8.3.1967) và nhạc thiền: “Có viết thêm vài bài hát mới. Melodie có khuynh hướng về folk và lyrics (meslodie: giai điệu; folk: nhạc dân gian; lyrics: lời bài hát – chú thích của người viết) thì có vẻ hơi thiền. Có lẽ đến một lúc nào đó tâm hồn nó phải thiền một chút mới sống được” (thư Sài Gòn 8.6.1996).
Trong nghệ thuật, thường vẫn có những trường hợp con người tiểu sử của tác giả không trùng khít với con người nghệ thuật trong tác phẩm. “Văn học là nhân học”, đó là một công thức “cổ điển” ai cũng biết, nhưng cũng có khi văn chưa hẳn đã là người (như trường hợp Vũ Trọng Phụng viết rất giỏi, rất sành sõi về nạn cờ bạc, ăn chơi… nhưng ngược lại, nhà văn là người sống rất hiền lành, mực thước). Với trường hợp Trịnh Công Sơn thì lại khác, qua sự soi chiếu của “Thư tình gửi một người”, càng cho thấy rõ, con người Trịnh Công Sơn trong đời (con người tiểu sử), trong đó có “con người tình sử” mộng mơ cùng Dao Ánh và con người Trịnh Công Sơn trong nhạc (tức là “hình tượng tác giả”, nói theo thuật ngữ của thi pháp học) có một sự trùng khít gần như là hoàn toàn. Nghĩa là nhạc sĩ sống thế nào viết thế ấy, giữa đời và nhạc Trịnh Công Sơn có mối quan hệ nhất quán: Đời thiết tha và Nhạc từ tâm, Đời đau thương và Nhạc thuốc thang, Đời dấn thân và Nhạc phản chiến.
“Thư tình gửi một người” như vậy đã vượt qua giới hạn của những bức thư tình riêng tư, nói như nhà thơ Nguyễn Duy, “mối tình cụ thể không còn nhưng một mối tình biểu tượng vẫn còn mãi” (2), giúp giải mã ca từ, soi chiếu con người và thế giới nghệ thuật Trịnh Công Sơn. Nó sống cùng những biểu tượng trong nhạc Trịnh, những biểu tượng về Trịnh và nó giúp soi chiếu những biểu tượng đó càng thêm lấp lánh, đúng như một quy luật của cái đẹp, của mỹ học mà nhà thơ Thôi Hộ thời Đường đã phát hiện: “Nhân diện đào hoa tương ánh hồng” (Hoa đào và mặt người cùng ánh lên sắc hồng).
Link tải về sách: Thư tình gửi một người - Trịnh Công Sơn
Blog về sách, về công nghệ, và những điều thú vị khác trong cuộc sống,
Hà Nội Báo động đỏ

Rạng sáng ngày 30 tháng Chín năm 1981, chiếc trực thăng UH1 từ thời Việt Nam Cộng Hòa mà quân đội Bắc Việt tiếp thu, cất cánh khỏi phi trường Bạch Mai, đặt Hà Nội trong tình trạng báo động khẩn cấp.
Đó là chuyến vượt thoát của 10 người gồm 3 phi công miền Bắc, 5 thành viên trong gia đình miền Nam của ông Dương Văn Lợi, tù nhân trở về từ hai trại tù khét tiếng Nam Hà và Cổng Trời ở miền Bắc.
Chuyến vượt thoát gian nan với những tình tiết bất ngờ được ông Dương Văn Lợi ghi lại trong tập sách Hà Nội Báo Động Đỏ, quyển một đã xuất bản và quyển hai chưa viết xong:
Qua Pháp đầu năm 1986, sau một năm tôi bắt đầu viết. Đầu tiên tôi viết bằng tiếng Pháp, gọi là Helicoptere De La Liberte, Hành Trình Trực Thăng Đi Tìm Tự Do, hoàn tất năm 1990. 
Năm 1992, khi ông Colby, xưa là giám đốc CIA mà lúc đó ông về hưu rồi, mời tôi qua bên đó ba tháng, tôi mới bắt đầu viết cuốn Hà Nội Báo Động Đỏ tại bên Washington DC. 
Tại sao Hà Nội Báo Đỏ, ông Dương Văn Lợi giải thích:
Lúc mà tôi đi là ở Hà Nội báo động ba ngày, nội bất xuất ngoại bất nhập. Tôi qua bên Tàu thì được bên đó cho biết đó là cuộc báo động lớn nhất của cộng sản Hà Nội. 
Tôi đi khóa 12 Thủ Đức và tôi giải ngũ năm 1964. Từ 1964 cho đến 1975 tôi là kỷ sư công chánh, làm về xây cất. Nếu đi là lúc 1975 tôi đi một cách dễ dàng vì tôi làm cho Mỹ mà. 
Những năm tù tội
Không lâu sau ngày 30 tháng Tư 1975, thấy không thể sống trong chế độ vời những chính sách trấn áp và kiểm tra hà khắc, ông Dương Văn Lợi bắt đầu tìm cách trốn đi, khởi đầu những năm dài tù tội sau đó:
Tháng Bảy 1975, 30 người đi vào rừngphần đông là cựu quân nhân mà không đi trình diện. Anh em tổ chức chứ không phải một mình tôi, định vô rừng nếu gặp những thành phần không đầu hàng thì mình hợp tác, nếu không thì mình vượt biên qua bên Lào, bên Miên. 
Ba chục người chia làm 3 nhóm đi lên vùng Tam Biên. Đến tháng Tám nhóm của ông Dương Văn Lợi bị bắt tại vùng bên giới Tam Biên, giải thẳng về Ban Mê Thuột sau đó tống về khám Chí Hòa. Hai nhóm kia cũng không may mắn hơn, họ mất liên lạc với nhau từ đó.
Giam tại Cổng Trời từ 77 đến 78. Năm 78, 79, sự thật nếu không có bọn Tàu đánh qua thì chưa biết chúng tôi sống chết ra sao bởi ai cũng biết Cổng Trời là muôn năm cho tới chết
Tháng Mười 1975, ông Dương Văn Lợi được tạm tha nhưng vẫn bị theo dõi sát. Tháng Mười Một cùng năm ông bị bắt trở lại:
Tôi thuộc diện bị tập trung cải tạo, bị đưa lên Long Khánh tháng Hai năm 1977bị ghép tội phản động. Sau họ xét nhà thì họ bắt những tài liệu tôi làm cho Mỹ về vấn đề xây cất. Họ ghép tôi là CIA cái đó mới là nặng. Tháng Tư năm 1977 họ đưa chúng tôi ra Bắc, đầu tiên giam ở Nam Hà . Ra đó coi như mình tiêu rồi, coi như chết rồi, do đó anh em bắt đầu chống đối không chịu đi lao động. Tới Noel 1977, khoảng 12 giờ khuya họ kêu anh em cùm lại để đi lên Cổng Trời. 
Giam tại Cổng Trời từ 77 đến 78 . Năm 78, 79, sự thật nếu không có bọn Tàu đánh qua thì chưa biết chúng tôi sống chết ra sao bởi ai cũng biết Cổng Trời là muôn năm cho tới chết. 
Vì cuộc chiến biên giới đó mà nhiều tù nhân Cổng Trời, trong đó có ông Dương Văn Lợi, được chuyển về Thanh Hóa:
Về đó họ đưa lên cùm liền, nặng thì cùm trước như cha Lễ hay đại tá Trịnh Tiếu. Tôi với Đặng Văn Tiếp thì lên cùng lượt, sau đó nhà đá bớt người thì họ đưa lên. Cùm trong nhà đá là kinh khủng. 
Cho đến năm 1981 trên đó mà bị kỷ luật thì gia đình không được tiếp tế, năm đó chết cũng nhiều. Nhưng bắt đầu từ đó thì họ biết ăn hối lộ rồi, gia đình tôi chạy 10 lượng vàng để tôi được thả tháng Tư năm 1981. Nó chịu ăn hối lộ mình mới chạy được. 
Về Sài Gòn, ông Dương Văn Lợi chỉ theo lệnh trình diện tại Bộ Nội Vụ nhưng không ra trình diện ở phường. Mục đích của ông lúc đó là tìm kiếm đường đi bằng mọi giá.
Kế hoạch cướp máy bay
May sau này nhờ bà con móc nối, lại thêm sự hỗ trợ của người em là sĩ quan công an của chế độ mới, ông Dương Văn Lợi làm quen với một số phi công bộ đội chuyên lái trực thăng đang chở ngày ra tòa vì tội buôn lậu. Mọi người thảo kế hoạch cướp máy bay trốn đi:
Khi mà máy bay đậu tại phi trường Bạch Mai thì nó gỡ hết bình điện, gỡ hết không bàn, lúc đó thì phải đi tìm mua. Mãi tới 5 tháng sau thì mới tìm được cái bình điện đã 10 năm
Phi công trực thăng mà đi buôn lậu bên Kampuchia, nguyên cả phi hành đoàn đó bị bắt, ba người bị hết. Nên nhớ phi công là con ông cháu cha không chứ đâu phải nhỏ, đã bị treo giò bị kỹ luật vẫn còn ở Tân Sơn Nhất, tụi nó cũng dự định trốn. 
Khi thấy kế hoạch trốn đi từ Tân Sơn Nhất không thành, mọi người chuyển hướng ra phía Bắc:
Cuối cùng anh phi công chánh người Nghệ An và có em tôi là sĩ quan công an Việt Cộng bây giờ đang ở bên Nhật Bổn, cho biết phi trường Bạch Mai chấm được thì mới bắt đầu đi tìm mua không bàn với bình điện. Khi mà máy bay đậu tại phi trường Bạch Mai thì nó gỡ hết bình điện, gỡ hết không bàn, lúc đó thì phải đi tìm mua. Mãi tới 5 tháng sau thì mới tìm được cái bình điện đã 10 năm mà khi ra Hà Nội sạc vẫn mạnh như thường. 
Chiếc trực thăng đó là của anh phi công tại Hà Nội đại khái lái giỏi nhất. Anh phi công đó ngày 30 tháng Chín phải ra hội đồng kỹ luật, anh nói cuối tháng Chín mà không đi thì coi như bỏ hết. Chiếc trực thăng UH 1 đó của Bộ Chính Trị đi mà. 
Máy bay thì có người lo, tôi chỉ lo vấn đề mua bình , mua không bàn, Ra ngoài đó thì em tôi có trách nhiệm đi sạc bình lại. 
Đến giờ G của ngày 30 tháng Chín, dự dịnh cất cánh vào lúc 4 giờ sáng không thành với những pha gây cấn đến thót tin. Theo sắp đặt, phi công chính và phi công phụ vào phi trường Bạch Mai bằng cửa chính. Phía ông Dương Văn Lợi mang theo hai con trai, người em ruột và một người cháu:
Trực thăng mang số 576 đã hạ cánh trên lãnh thổ Trung Quốc
Trực thăng mang số 576 đã hạ cánh trên lãnh thổ Trung Quốc vì cạn xăng.
Đã cam kết là không cho đàn bà đi nhưng khuya đó anh phi công đem cô hôn thê của anh ta, cô đó lại cho một người bạn nữa đi theo. Thấy hai cô gái tôi chưng hững rồi, nhưng máy bay của người ta tôi đâu có từ chối được, mà để lại thì cũng nguy hiểm, thành ra có 10 người.
Phi trường Bạch Mai chỉ có 3 chiếc trực thăng thôi, tôi định cất cánh là đúng 4 giờ sáng. Hai người vô cửa chính là anh phi công chính và phi công phụ vì còn công tác ở đó tới hết tháng chín mới ra hội đồng kỷ luật. Nhóm của tụi tôi thì đợi tại cầu Long Biên, tôi, 2 cô gái, 2 đứa nhỏ với một thằng cháu. 
Đã cam kết là không cho đàn bà đi nhưng khuya đó anh phi công đem cô hôn thê của anh ta, cô đó lại cho một người bạn nữa đi theo. Thấy hai cô gái tôi chưng hững rồi, nhưng máy bay của người ta tôi đâu có từ chối được, mà để lại thì cũng nguy hiểm, thành ra có 10 người
Một anh đem bình điện thì phải đi giao thông hào, nhưng khi vô đó ban đêm mà chiếc máy bay UH 1 của mình nó nhỏ hơn chiếc MI 8 của Nga, ban đêm tối thui anh đi lố đi. Hai người vô trước đợi hoài không thấy bình điện, đợi đến 5 giờ là buổi sáng trại gia bình họ tập thể dục mà vẫn chưa thấy bình vô. Tới khi anh này trở ra, cắt hàng rào kẽm gai đưa cái bình điện vô rồi thì mừng quá. 
Đó là thời gian mà phi trường Bạch Mai được lệnh canh gác cẩn mật do trước đó hai tuần đã xảy ra vụ một thiếu úy an ninh quân đội Bắc Việt tình nghi cướp trực thăng nhưng không may bị chận bắt trở lại:
Cho nên sau đó mỗi chiếc trực thăng đều có một anh lính gác đạn lên nòng. Không ngờ cái anh lính gác đó lại là em chú bác gì với anh phi công chính, ảnh mới nói tao vô sửa soạn máy bay để sáng đưa các thủ trưởng đi công tác sớm. Sẵn có cây sắt khoảng 3 gang thì làm sao mà nó đội nón sắt mà đập ngay cần cổ cho nó ngất xỉu được? Thì người anh mới mời nó hút thuốc, bật hộp quẹt đưa ra thì ảnh cứ kéo kéo cho người này cúi đầu xuống thì anh phi công phụ đập anh lính gác một cây cho xỉu rồi đưa bình điện lên ráp. 
Không may vừa ráp xong thì người lính gác tỉnh dậy và bỏ chạy nhưng lại không kêu được tiếng nào. Thế là hai người phi công cố rượt theo và đánh cho anh ta ngất đi một lần nữa:
Xong rồi lên trực thăng mà trời đang tối, mở công tắc một cái thì cái đèn trên bảng điều khiển nó sáng như một cái thành phố, cho nên anh cơ phi giựt đứt sợi dây liền, tối thui luôn, rồi bắt đầu cho máy chạy. Không ngờ cánh quạt ở trên cột sợi dây cáp mà không ai để ý. Anh cơ phi nhảy lên cởi giây cáp xong rồi xuống bật lại cho máy nổ, từ đó xuống cầu Long Biên đón tụi tôi liền, đón 6 người. 

Ông Dương Văn Lợi khi đến Paris
Ông Dương Văn Lợi khi đến Paris

Chiếc trực thăng UH 1 bốc lên cao, trực chỉ hướng Hồng Kông như đã tính toán, nhưng:
Bay hai tua trở lại thì vẫn thấy thành phố Hà Nội. Phi công mới nói chết rồi không thấy không bàn đi không được. Hên là người cơ phi sực nhớ có hộp quệt, mới quẹt lên rồi để ngay cái không bàn, bắt đầu mới đi tiếp. 
Blog về sách, về công nghệ, và những điều thú vị khác trong cuộc sống,


<a href=
Windows 10 Technical Preview
Vừa qua, Microsoft cũng đã phát hành bản xem trước của hệ điều hành này - Windows 10 Technical Preview (Build 9926) - để tất cả mọi người tham gia vào chương trình Windows Insider của họ có thể trải nghiệm trước hệ điều hành mới, tham gia góp ý... để có được bản Windows 10 hoàn hảo nhất khi ra mắt.

Nhằm hỗ trợ những người yêu thích Windows 10, đặc biệt là những bạn chưa có điều kiện cài đặt hệ điều hành mới này, mình xin gửi đến các bạn mini Ebook: Bắt đầu với Windows 10. Nội dung của nó là những gì mới mẻ và giúp cho người dùng làm quen, để có thể bắt đầu sử dụng hệ điều hành mới của Microsoft. Mình cũng xin nói trước là nếu có “hư hại, hỏng hóc” khi mà coi ebook và làm theo thì mình không chịu trách nhiệm gì đâu nhé hihi.

Ebook không tránh khỏi thiếu sót trong quá trình biên tập nên rất hoan nghênh mọi ý kiến góp ý để ebook hoàn thiện hơn nữa trong các phiên bản sau. Mọi bài viết, góp ý vui lòng gửi email cho mình hoặc bạn cũng có thể liên hệ qua Facebook.

Tải về Ebook Bắt đầu với Windows 10 (tiếng Việt):
https://onedrive.live.com/redir?resid=2F0D597295F02A1B%217967